|
woody_woodpecker
|
Age : 1036
Join date : 05/02/2009
Tổng số bài gửi : 82
Đến từ :
|
Tiêu đề: Tre Việt Nam trong thế kỷ 21
|
|
|
|
Phong Doanh Tự TràoĐây là lần thứ hai trong cuốn sách nhỏ này tôi lại viết về tre, cây tre Việt Nam. Nói như ai đó, đã ngàn đời nay tre và người là đôi tri kỷ. Tre mọc thành bụi, thành bờ, thành lũy trong mọi làng quê. Nhà thơ Nguyễn Duy trong bài "tre xanh" có câu " thân gầy guộc lá mong manh, mà sao nên lũy, nên thành tre ơi". Người nông dân hàng năm vào dịp cuối hè xuống ao xúc bùn đổ vào gốc tre để tre giữ màu xanh vĩnh cửu, để tre đẻ thêm những lứa măng cho ấm bụi ấm bờ. Đổi lại, tre giúp người làm nên những ngôi nhà mộc mạc, với những vì kèo, cột chống, tường vách từ tre. Những chiếc đòn gánh tre người nông dân bao đời đã dùng để gánh tất cả nỗi nhọc nhằn trên đôi vai gầy trong suốt cuộc đời làm lúa, cho mỗi năm hai vụ lại gánh hạt vàng về chất đầy các bồ, các thúng bằng tre. Cái cối tre mà trên trái đất này, ngoài nông thôn Việt Nam ra ắt hẳn chẳng còn nơi nào có nữa, là một vật dụng biểu tượng cho sự no ấm hạnh phúc dưới mỗi căn nhà. Nó đứng tĩnh lặng phần lớn thời gian ở xó bếp hay góc hiên nhà, dáng phồn thực trong chiếc váy được làm từ tre, từ nứa. Chiếc cối xay giản dị đó bao đời nay còn là chiếc máy biết hát trong mỗi gia đình, vì mỗi khi nó cất lên lời thì đó là lời của bài ca no ấm, làm rạng rỡ các khuôn mặt nhễ nhại mồ hôi, làm ấm áp lửa rơm hồng trong bếp với hương cơm nồng nàn lan tỏa từ chiếc nồi đang lục bục sôi và lèn chặt căn nhà bằng tiếng cười con trẻ. Chiếc giường tre đơn sơ ấm áp là người bạn tâm tình của mỗi nông dân từ thuở lọt lòng cho đến lúc về cùng tiên tổ. Trong các cuộc chiến giữ nước, giữ làng khỏi các thế lực ngoại xâm, tre vừa là thành lũy, vừa là vũ khí. Người nông dân dùng tre làm gậy tầm vông, hoặc vót tre làm cây chông đánh giặc. Trên trái đất này không biết còn ở đâu có cây gì gắn bó, tận tụy với người như cây tre Việt Nam nữa hay không.
Tre không chỉ quây thành tổ ấm cho mỗi gia đình mà nó còn che trở. Thế gian đã bao lần chao đảo, tre vẫn xanh và giữ cho tâm hồn Việt chẳng bị đổi thay. Một ngàn năm Bắc thuộc, dân tộc Việt vẫn là dân tộc Việt. Chiếc giày vải màu chàm không thay được đôi guốc mộc một quai. Rồi một trăm năm Pháp thuộc, tiếng còi tàu lanh lảnh của văn minh công nghiệp phương Tây cũng chẳng làm người nông dân Việt Nam thức giấc. Vải vẫn nhuộm nâu, răng vẫn nhuộm đen, cả một đời người vẫn quen đi đất. Hình như chẳng có nền văn minh ngoại lai nào có thể vượt qua nổi lũy tre xanh. Đó cũng chính là điều làm nên sức sống Việt mãnh liệt bao đời, không thể dập vùi bằng bão tố mưa sa, cũng như tre luôn đứng vững trước phong ba bão táp.
ét về mặt đa dạng thực vật thì tre thuộc về họ cỏ với đặc trưng không thể trộn lẫn là thân rỗng và chia thành nhiều đốt. Một loại cỏ khổng lồ, cùng họ với những người anh em khổng lồ khác như cau, dừa, thốt nốt, cọ. Có thể, với xuất xứ từ cỏ nên tre có sức sống phi thường, lớn nhanh đẻ mạnh. Tre không dừng ở việc được dùng để dựng nhà, làm các vật dụng hàng ngày. Tre còn cùng người chia sẻ ngọt bùi đắng cay. Măng tre không chỉ nuôi sống người trong những hoàn cảnh khó khăn mà cả khi mâm cao cỗ đầy măng cũng chẳng nỡ chối từ góp mặt. Có một loại cỏ khác mà người Việt chúng ta thường dùng để chế biến thành một số món ăn dân dã trường kỳ. Đó là rau muống. Nhờ Trời, khí hậu nóng ấm nên các loại cỏ mọc tốt tươi, tuy chúng chẳng dinh dưỡng là bao nhưng chúng lành, có thể nuôi người qua cơn bĩ cực. Cũng nhờ có điều kiện thiên nhiên ưu đãi nên trong các làng quê Việt Nam bao đời nay phổ biến duy nhất một lối sống tự cung tự cấp mà gia đình là một đơn vị. Hình mẫu của một đơn vị sản xuất từ bấy lâu nay có thể hình dung như sau. Đó là một cặp nông dân, một vợ, một chồng cộng bầy con thơ, ít thì bốn, năm, nhiều thì một tá. Mỗi đơn vị sản xuất đó sống trong một mái nhà riêng biệt, được quây kín bằng những rặng tre. Trước cửa nhà là mấy cây cau thẳng tắp, tạo cảnh quan đẹp không kém gì tre, vừa dùng để hứng nước mưa, vừa để lấy quả têm trầu cho mọi khởi đầu câu chuyện. Dưới khóm tre già cuối vườn, người bạn thân thiết nhất của nhà nông đang bỏm bẻm nhai sau một ngày cày bừa vất vả. Bữa cơm đạm bạc bao đời chỉ có cơm độn khoai, độn sắn, tô cà muối mặn, bát canh rau muống hái ở bờ ao, đĩa cá lép bắt ở ngoài đồng rang mặn. Người Việt chúng ta có thói quen bắt chước lẫn nhau. (Thói bắt chước ấy đến bây giờ vẫn thường trực trong mỗi chúng ta. Nếu ta biết phát huy thói quen này để làm công nghệ thì chắc là thành đạt). Nhà bên cạnh nuôi con gì, trồng cây gì thì nhà mình cũng nuôi cũng trồng như vậy. Vì thế, mỗi nhà tự sản, tự tiêu, chẳng mấy khi có nhu cầu trao đi bán lại. Đấy, bức tranh cuộc sống nông thôn Việt nam bao đời nay na ná như vậy. Người nông dân sống giữa các bụi cỏ khổng lồ, che lấp cả tầm con mắt, cấy cỏ lấy hạt nấu cơm, ra bờ ao hái cỏ về để luộc, buổi tối ánh đèn dầu không hắt ra khỏi rậu tre, đèn nhà nào nhà nấy rạng.
Giờ đây người ta luôn nói đến những cụm từ như toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế thế giới, cạnh tranh toàn cầu Trái đất trở nên chật chội vì tham vọng của con người đã trở thành mối hiểm họa nội tại khôn lường nhân loại đã bị tiêm nhiễm chủ nghĩa tiêu xài đến mức trở thành con nghiện, liệu còn ai có thể đứng ngoài trào lưu toàn cầu hóa ấy, cái trào lưu mà người ta thường ví với làn sóng thứ ba. Nói một cách chân thành, nếu đứng được ngoài vòng xoáy ấy thì cũng đáng để đứng ngoài vì một cuộc sống bình an, gần gũi và hòa đồng với thiên nhiên. Nhưng, tình thế bây giờ cũng gần giống như giữa thế kỷ 19, khi đó ông cha chúng ta muốn nước nhà độc lập, muốn sống bình yên dưới rặng tre xanh nhưng xu thế xâm chiếm thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc khiến đế quốc Pháp đã không mời mà đến. Bây giờ khái niệm độc lập đã trở nên ngày càng mờ nhạt. Nếu ta muốn giếng nước của ta trong sạch, bầu không khí của ta trong lành thì điều đó cũng không còn trong tầm kiểm soát của riêng chúng ta vì mưa a xít đang là toàn cầu, ô nhiễm khí quyển không giới hạn ở riêng từng châu lục. Vì vậy, làn sóng lần này sẽ dữ dội, tre Việt Nam chắc cũng không thế đảm đương nổi nhiệm vụ "bảo toàn tính bất biến của tâm hồn và văn hóa Việt" như các lần trước đó. Hội nhập là một tất yếu của thời đại. Điều đó cũng có nghĩa là chúng la phải chấp nhận các qui luật của kinh tế thị trường, một luật chơi mà cha ông chúng ta khinh miệt, còn chúng ta mới được làm quen nhưng vẫn mang trong mình theo hội chứng di truyền những thói quen những tính cách không phù hợp với nền kinh tế dựa trên cạnh tranh, nhất là trong điều kiện phải cạnh tranh với những người đã đi trước dân mình hàng nhiều thế kỷ. Tôi hay nghĩ với nhiều trăn trở về khả năng thích nghi của dân tộc ta với hoàn cảnh mới này. Thẳng thắn mà nói, dân ta có nhiều đức tính tốt đẹp. Tuy vẫn biết dân mình rất có cảm tình với việc được khen, nhưng khen, nhất là tự khen thường làm cho con người ngái ngủ. Vì vậy, chúng ta cũng cần biết mình là ai, ở đâu so với người ngoài để mà cố gắng. Thế giới đã nói nhiều đến sức mạnh văn hóa của các dân tộc. Cuộc chiến cạnh tranh kinh tế lần này đòi hỏi dân mình phải lột xác một lần nữa để có một sức mạnh mới, mà sức mạnh lần này phải dựa trên những đức tính, những phẩm chất mang tính thời đại, mà vị trí số một phải là tinh thần năng động và sáng tạo. Cần phải nói thẳng ra rằng, do cái phương thức sản xuất theo kiểu tự sản, tự tiêu của mỗi gia đình nông dân mà bao đời nay đã hình thành trong cha ông chúng ta một số tính cách không thể chấp nhận vì những tính cách đó không ít thì nhiều đang tạo ra những vật cản nội tại khiển nền kinh tế Việt Nam dễ mất đi thế mạnh cạnh tranh. Có thể kể một số tính cách khiếm khuyết chính của người mình như sau:
1 Tinh thần cộng đồng yếu kém 2 Khinh miệt kinh doanh 3 Ít cởi mở 4 Nhút nhát, tự ti 5 Tinh tướng 6 Dĩ hòa vi quí 7 Sĩ hão 8 Đố kị 9 Khôn lỏi 10 Dối trá
|
|
|
|
|
|
Copy đường link dưới đây gửi đến nick yahoo bạn bè!
|
|
|